Bảo hộ lao động -
An toàn và vệ sinh lao động
Hiện
nay ở nước ta, hai thuật ngữ "Bảo hộ lao động" và "An toàn và Vệ
sinh lao động" đang tồn tại và được sử dụng song song, có thể thay thế cho
nhau trong nhiều trường hợp, cả trong các văn bản pháp luật, cả trong thực tế
hoạt động, sản xuất và đời sống.
Từ những năm 50 của thế kỷ trước, thuật ngữ Bảo hộ lao động đã bắt đầu được sử dụng ở Việt
Nam và ngày càng được dùng rộng rãi trong văn bản pháp luật, trong các tài liệu
và trong thực tế cuộc sống. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết,
Chỉ thị, văn bản pháp luật về bảo hộ lao động như "Điều lệ tạm thời về Bảo hộ lao động" (tháng
12/1964), "Pháp lệnh Bảo hộ lao động" (tháng
9/1991). Trong chỉ thị số 132/CT ngày 13/3/1959 của Ban Bí thư Trung ương Đảng
đã sử dụng thuật ngữBảo hộ lao động. Ngày 01/5/1971,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định thành lập "Viện nghiên cứu KHKT Bảo hộ lao động". Tháng
02/2005, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định thành lập "Hội đồng Bảo hộ lao động quốc gia". Trong
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trong công tác chỉ đạo của các cấp,
các ngành, các cơ sở, thuật ngữ Bảo hộ lao động cũng
được dùng một cách phổ biến cho đến nay.
Từ năm 1995, khi Bộ luật Lao động ra đời và có hiệu lực, thuật
ngữ "An toàn và Vệ sinh lao động" bắt
đầu được sử dụng rộng rãi hơn. Tên gọi "An toàn lao động, Vệ sinh
lao động" được sử dụng chính thức cho tiêu đề của chương
IX trong Bộ luật Lao động. Hiện nay, trong các văn bản pháp luật cũng như trong
thực tế thì thuật ngữ An toàn và Vệ sinh lao
động đã được sử dụng thường xuyên. Đặc biệt trong giao dịch
quốc tế, chúng ta thường sử dụng thuật ngữ An toàn và Vệ sinh lao động để
phù hợp với cách sử dụng của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và của nhiều nước
trên thế giới, xuất phát từ thuật ngữ bằng tiếng Anh là"Occupational Safety and Health" và thường viết tắt là
OSH.
Trong thực tế, chúng ta cũng thường gặp có trường hợp cùng một
thuật ngữ tiếng Anh, nhưng khi chuyển ngữ sang tiếng Việt lại có những nghĩa
khác nhau. Ở đây cũng vậy, cùng một thuật ngữ tiếng Anh là Occupational Safety
and Health, nhưng trong một số trường hợp, các nhà chuyên môn gọi là "An toàn và sức khoẻ nghề nghiệp" để
phù hợp với từng hoàn cảnh và chủ đề cụ thể mà không có gì mâu thuẫn với cách
chuyển ngữ thứ nhất là "An toàn và Vệ sinh lao
động".
Như vậy là trong mấy chục năm qua kể từ ngày thành lập nước, hai
thuật ngữ Bảo hộ
lao động (BHLĐ) và An toàn và Vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đều được sử dụng một cách chính thức, phổ biến trong văn bản pháp luật, trong đời sống xã hội của nước ta để nói về một công tác lớn của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội với nội dung chủ yếu là đảm bảo ATVSLĐ, chăm lo cải thiện điều kiện lao động (ĐKLĐ), phòng chống tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN), bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho người lao động (NLĐ) nước ta. Hai thuật ngữ đó, trong quá trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể và từng giai đoạn, đã được sử dụng nhiều hay ít, phổ biến hay không, còn về bản chất, chúng đều được hiểu một cách đầy đủ, cơ bản là:
lao động (BHLĐ) và An toàn và Vệ sinh lao động (ATVSLĐ) đều được sử dụng một cách chính thức, phổ biến trong văn bản pháp luật, trong đời sống xã hội của nước ta để nói về một công tác lớn của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội với nội dung chủ yếu là đảm bảo ATVSLĐ, chăm lo cải thiện điều kiện lao động (ĐKLĐ), phòng chống tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN), bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho người lao động (NLĐ) nước ta. Hai thuật ngữ đó, trong quá trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể và từng giai đoạn, đã được sử dụng nhiều hay ít, phổ biến hay không, còn về bản chất, chúng đều được hiểu một cách đầy đủ, cơ bản là:
Bảo hộ lao động (hay An toàn và Vệ sinh lao động) là các hoạt động
đồng bộ trên các mặt pháp luật, tổ chức quản lý, kinh tế - xã hội, khoa học -
công nghệ nhằm cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm an toàn và vệ sinh lao
động, phòng chống tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, bảo vệ tính mạng và sức
khoẻ cho con người trong lao động.
Bảo hộ lao động (hay
An toàn và Vệ sinh lao động) ra đời và phát triển cùng với quá trình phát triển
sản xuất, vì yêu cầu tất yếu khách quan phải bảo vệ tính mạng, sức khoẻ NLĐ -
yếu tố chủ yếu và năng động nhất của lực lượng sản xuất xã hội. Trình độ phát
triển của BHLĐ phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế, khoa học công
nghệ và yêu cầu phát triển xã hội của mỗi quốc gia.
Vào những thập niên giữa thế kỷ 20, khi yêu cầu tối thiểu cơ bản
của NLĐ trước hết là phải không bị tai nạn, bệnh tật trong khi làm việc, thì
mục tiêu chính của ATVSLĐ là phải áp dụng ngay các biện pháp, nhiều khi là bị
động, để ngăn chặn tai nạn, bệnh tật, chứ chưa thể nghĩ đầy đủ đến các giải
pháp có hệ thống, chủ động kiểm soát nguy cơ gây ra tai nạn, bệnh tật ngay từ
đầu. Cùng với sự phát triển của kinh tế, khoa học và công nghệ, công tác ATVSLĐ
cũng chuyển dần từ đối phó, bị động sang thế chủ động trong việc quản lý và
kiểm soát các nguy cơ một cách có hệ thống, trong đó coi trọng việc nâng cao
văn hoá an toàn và ưu tiên biện pháp phòng ngừa. Những năm cuối thế kỷ 20 và
đầu thế kỷ 21, nhất là từ tháng 6 năm 2003, sau khi Hội nghị Lao động quốc tế
thông qua chiến lược toàn cầu về ATVSLĐ và tiếp đó, sau khi có Hội nghị thượng
đỉnh tại Đại hội thế giới về ATVSLĐ lần thứ 18 ở Seoul - Hàn Quốc (2008)
ra "Tuyên bố Seoul về An toàn và sức khoẻ trong lao động",
vấn đề ATVSLĐ đã có những bước phát triển mới, cả trong nhận thức về vai trò,
tầm quan trọng, phương hướng phát triển, cả trong những biện pháp quản lý, kiểm
soát các nguy cơ để bảo đảm ATVSLĐ, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ NLĐ.
PGS.TS. Nguyễn An Lương
(Nguồn tin: Tài liệu: Bảo hộ lao động (2012))
0 nhận xét:
Đăng nhận xét